Áp xe gan là gì? Các công bố khoa học về Áp xe gan
Áp xe gan là một thuật ngữ y học dùng để chỉ mức độ tăng áp trong mạch máu động mạch gan. Áp xe gan thường được đo bằng millimeter (mm) thủy ngân và thường được...
Áp xe gan là một thuật ngữ y học dùng để chỉ mức độ tăng áp trong mạch máu động mạch gan. Áp xe gan thường được đo bằng millimeter (mm) thủy ngân và thường được biểu thị bằng con số ví dụ như 12/7 mmHg. Áp xe gan là một yếu tố quan trọng để đánh giá chức năng gan và có thể phản ánh các vấn đề về sức khỏe, chẳng hạn như bệnh gan mạn tính hoặc suy gan.
Áp xe gan được đo bằng cách đặt một dụng cụ đo áp (như một cân sphygmomanometer) lên cánh tay hoặc bàn chân. Áp được đo trong mạch máu động mạch gan, khi máy tạo ra áp lực để nén mạch máu và được ghi nhận bằng đồng hồ hiển thị.
Áp xe gan có hai giá trị, số trên thường gọi là "systolic pressure" và số dưới thường gọi là "diastolic pressure". Systolic pressure đo áp lực trong khi tim co bóp và bơm máu đi ra. Diastolic pressure đo áp lực trong khi tim nghỉ ngơi giữa các nhịp co bóp.
Áp xe gan bình thường varie giữa các cá nhân và còn phụ thuộc vào độ tuổi, giới tính và tình trạng sức khỏe của mỗi người. Tuy nhiên, áp xe gan lành mạnh thường nằm trong khoảng từ 10-14 mmHg cho systolic pressure và 4-8 mmHg cho diastolic pressure.
Nếu áp xe gan cao hơn mức bình thường hoặc không ổn định, có thể được coi là một dấu hiệu của vấn đề sức khỏe như bệnh gan mạn tính, suy gan, bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch, cao huyết áp hoặc sự cản trở trong dòng chảy máu đến gan.
Áp xe gan được đo thường xuyên trong quá trình điều trị và theo dõi các vấn đề về sức khỏe gan. Nếu có bất kỳ biến đổi nào so với giá trị bình thường, cần tham khảo ý kiến của bác sĩ để đánh giá và điều trị.
Áp xe gan (APGP - Arterial Portal Gradient Pressure) là sự khác biệt áp lực giữa động mạch chủ gan (arteria hepatica) và tĩnh mạch chủ gan (vena portae hepatis). Áp xe gan thường được sử dụng để đánh giá chức năng gan và mức độ tắc nghẽn của dòng chảy máu qua gan.
Áp xe gan được xác định thông qua phương pháp vắt động mạch và đo áp lực trong tĩnh mạch chủ gan. Thông thường, quá trình đo áp xe gan được tiến hành trong phẫu thuật gan hoặc thông qua các phương pháp nội soi mạch máu.
Các giá trị bình thường của áp xe gan là khoảng 5-10 mmHg. Mức áp xe gan cao hơn 10 mmHg có thể cho thấy tình trạng tắc nghẽn trong dòng chảy máu qua gan, như viêm gan mạn tính, xơ gan, u gan hoặc suy gan. Áp xe gan thấp hơn 5 mmHg có thể cho thấy một số vấn đề khác như suy tim hoặc dòng chảy máu yếu đến gan.
Đo áp xe gan là một phương pháp quan trọng để đánh giá chức năng gan và giúp xác định phương pháp điều trị phù hợp đối với các vấn đề liên quan đến gan. Việc giảm áp xe gan có thể cần thiết trong một số trường hợp như thông qua các thuốc chống viêm hoặc thông qua phẫu thuật đặt stent hay by-pass mạch máu.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "áp xe gan":
Thử nghiệm giai đoạn III này so sánh hiệu quả và tính an toàn của paclitaxel gắn albumin (nab-paclitaxel) cộng với carboplatin so với paclitaxel dựa trên dung môi (sb-paclitaxel) cộng với carboplatin trong ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) ở giai đoạn tiến triển.
Tổng cộng 1.052 bệnh nhân chưa từng được điều trị với NSCLC giai đoạn IIIB đến IV đã được phân bổ ngẫu nhiên theo tỷ lệ 1:1 để nhận nab-paclitaxel 100 mg/m2 hàng tuần và carboplatin với diện tích dưới đường cong (AUC) 6 mỗi 3 tuần (nab-PC) hoặc sb-paclitaxel 200 mg/m2 cộng với carboplatin AUC 6 mỗi 3 tuần (sb-PC). Điểm cuối chính là tỷ lệ đáp ứng tổng thể khách quan (ORR).
Dựa trên đánh giá độc lập, nab-PC thể hiện tỷ lệ ORR cao hơn đáng kể so với sb-PC (33% so với 25%; tỷ lệ phản ứng, 1,313; 95% CI, 1,082 đến 1,593; P = .005) và trong bệnh nhân có mô học dạng squamous (41% so với 24%; tỷ lệ phản ứng, 1,680; 95% CI, 1,271 đến 2,221; P < .001). Nab-PC hiệu quả tương đương sb-PC ở bệnh nhân có mô học không dạng squamous (ORR, 26% so với 25%; P = .808). Có sự cải thiện khoảng 10% trong sống không tiến triển (trung bình, 6,3 so với 5,8 tháng; tỷ lệ nguy hiểm [HR], 0,902; 95% CI, 0,767 đến 1,060; P = .214) và sống tổng thể (OS; trung bình, 12,1 so với 11,2 tháng; HR, 0,922; 95% CI, 0,797 đến 1,066; P = .271) trong nhánh nab-PC so với nhánh sb-PC, tương ứng. Bệnh nhân ≥ 70 tuổi và các đối tượng được ghi nhận ở Bắc Mỹ cho thấy OS tăng đáng kể với nab-PC so với sb-PC. Giảm đáng kể độ ≥ 3 của bệnh thần kinh, giảm bạch cầu, đau khớp và đau cơ trong nhóm nab-PC, và giảm tiểu cầu và thiếu máu xảy ra trong nhóm sb-PC.
Việc quản lý nab-PC như liệu pháp đầu tiên cho bệnh nhân NSCLC tiến triển là hiệu quả và đạt được tỷ lệ ORR cải thiện đáng kể so với sb-PC, đạt được điểm cuối chính. Nab-PC gây ít vấn đề thần kinh hơn so với sb-PC.
Trong kỷ nguyên hậu di truyền, trọng tâm của nhiều nhà nghiên cứu đã chuyển sang việc nghiên cứu các sản phẩm chức năng của quá trình biểu hiện gene. Trong vi sinh vật học, những phương pháp ‘omics’ này chủ yếu được giới hạn ở các nuôi cấy đơn thuần của vi sinh vật. Do đó, chúng không cung cấp thông tin về biểu hiện gene trong hỗn hợp phức tạp của vi sinh vật tồn tại trong môi trường. Phương pháp của chúng tôi đã có thể tách và tinh lọc thành công toàn bộ proteome từ một hệ thống bùn hoạt tính quy mô phòng thí nghiệm tối ưu hoá cho việc loại bỏ photpho sinh học nâng cao, thực hiện phân tách bằng điện di gel polyacrylamide hai chiều và lập bản đồ của metaproteome này. Các đốm protein biểu hiện cao đã được tách ra và xác định bằng phương pháp khối phổ bốn cực thời gian bay với chuỗi peptide
Các vật liệu perovskite halide vô cơ toàn phần đang cho thấy sự phát triển đầy hứa hẹn đối với các vật liệu và pin mặt trời có hiệu suất cao và ổn định trong thời gian dài. Việc pha tạp nguyên tố, đặc biệt là tại vị trí của chì, đã được chứng minh là một chiến lược hữu ích để đạt được chất lượng màng mong muốn và pha vật liệu cho các pin mặt trời perovskite vô cơ hiệu suất cao và ổn định. Tại đây, chúng tôi chứng minh một chức năng thông qua việc thêm bari vào CsPbI2Br. Chúng tôi nhận thấy rằng bari không bị tích hợp vào mạng tinh thể perovskite mà gây ra hiện tượng tách pha, dẫn đến sự thay đổi tỷ lệ iodide/bromide so với tỷ lệ hóa học trong tiền chất và do đó làm giảm năng lượng dải cấm của pha perovskite. Thiết bị với 20 mol% bari cho thấy hiệu suất chuyển đổi năng lượng cao đạt 14,0% và cải thiện đáng kể sự ức chế tái hợp không bức xạ trong perovskite vô cơ, đạt hiệu điện thế không tải cao là 1,33 V và hiệu suất lượng tử ngoại mức điện phát sáng là 10−4.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10